Tuyên Quang - vùng đất có vị trí chiến lược quan trọng. Trong Cách mạng Tháng Tám 1945, Tuyên Quang được Trung ương Đảng, Bác Hồ chọn làm Thủ đô Khu Giải phóng. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược từ cuối năm 1946 đến năm 1954, Tuyên Quang một lần nữa được Trung ương Đảng, Bác Hồ chọn là Thủ đô Kháng chiến. Lòng người dân quê hương cách mạng còn mãi khắc ghi hình ảnh Bác Hồ, hình ảnh “Ông Cụ mắt sáng ngời/Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường”.
Bác Hồ trong lòng người dân chiến khu
Trong tiết trời nắng nhẹ tháng 5, đông đảo khách du lịch tìm về Tân Trào như tìm về cội nguồn của cách mạng, tìm về với Bác Hồ kính yêu. Câu chuyện Bác ốm nặng, sốt cao trong căn lán nhỏ Nà Nưa và được một cụ lang già người Tày ở đây chữa khỏi cùng với sự đùm bọc, che chở của người dân nơi đây đã khiến cho nhiều người rưng rưng hàng lệ. Ông Hoàng Ngọc năm nay trên 80 tuổi, chân đã yếu, mắt đã mờ nhưng ông vẫn thường lên lán Nà Nưa thắp hương cho Bác. Khi Bác Hồ từ Pác Bó về làng Tân Lập, ông Ngọc mới chỉ là cậu bé 10 tuổi nhưng hình ảnh của Bác vẫn còn in đậm trong ông. Bố ông là cụ Hoàng Trung Nguyên trước đây từng làm liên lạc cho cách mạng.
Ông Ngọc say sưa kể với các em nhỏ, đoàn viên, thanh niên trong xã và bất cứ ai những câu chuyện giản dị, cảm động về Bác Hồ. Đó là hình bóng hao gầy, xanh xao nhưng đôi mắt sáng tinh anh, vầng trán cao rộng thân thương, gần gũi lạ thường. Từ trẻ nhỏ như ông Ngọc cho tới người già trong làng, ai cũng mong muốn được gặp Bác một lần. Ở Tân Lập, Bác thường làm việc chăm chỉ, cùng tưới rau, lấy củi, tát nước vào ruộng cùng nhân dân.
Ông Hoàng Ngọc, dân tộc Tày, 83 tuổi, thôn Tân Lập, xã Tân Trào nói chuyện truyền thống
với học sinh tại Lán Nà Nưa. Ảnh: Quang Hòa
Chúng tôi đến ngôi nhà của ông Nguyễn Tiến Sự, nơi đây Bác Hồ đã ở từ ngày 21-5 đến cuối tháng 5-1945. Bà Hoàng Thị Mai, con dâu của cụ Nguyễn Tiến Sự ngày ngày vẫn dọn dẹp bàn thờ, hương khói cho Bác. Bà Mai sẽ chẳng bao giờ quên những câu chuyện được các cụ xưa kia kể lại về Bác. Nhất là câu chuyện Bác vận động chị em phụ nữ trong thôn vừa tăng gia sản xuất, vừa phải học văn hóa. Đến giờ, bà Mai cũng luôn vận động con cháu của mình hăng hái phát triển kinh tế gia đình và tích cực học tập.
Qua Tân Lập, chúng tôi đến thôn Khuôn Điển, xã Kim Quan (Yên Sơn). Lán ở và làm việc của Bác vẫn là căn lán nhỏ đơn sơ được làm theo kiểu truyền thống của người dân tộc Tày. Lán dựa vào núi và hướng ra dòng sông Phó Đáy. Tại đây, Bác đã chỉ đạo giành thắng lợi trong chiến dịch Đông Xuân 1953, 1954 mà đỉnh cao là Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. Bác đã đồng ý với đề xuất của Đại tướng Võ Nguyên Giáp chuyển từ phương châm “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”. Với khả năng tiên đoán tài giỏi về chiến thắng Điện Biên Phủ, Bác đã cử Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng lên đường sang dự Hội nghị Giơ-ne-vơ trước. Ông Lương Văn Tính, người cao tuổi ở Kim Quan kể, khi ông còn nhỏ vẫn thường nghe người già trong làng kể lại, tại Vực Nhù, phía trước căn lán nhỏ, Bác Hồ thường ngồi câu cá để thư giãn sau giờ làm việc. Cũng tại căn lán này, tháng 8-1954, Bác Hồ từ đây về Hà Nội. “Người đi rừng núi trông theo bóng Người” - Căn lán nhỏ, hầm an toàn của Bác, phiến đá nơi Bác thường ngồi câu cá vẫn còn đây, được người dân gìn giữ cẩn thận và khôn nguôi nhớ Người.
Xuôi theo dòng sông Phó Đáy, qua Kiến Thiết, Đèo Nàng, chúng tôi đến khu rừng Nà Loáng, thuộc thôn Bó Củng, xã Kim Bình (Chiêm Hóa). Tại đây, Bác Hồ đã tham dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II, Bác được bầu là Chủ tịch BCH Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Tại Đại hội đã quyết định những vấn đề quan trọng liên quan tới vận mệnh của cả dân tộc: Đề ra chủ trương, đường lối đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn; tổ chức Đảng Lao động Việt Nam... Ban ngày, Bác làm việc tại căn lán nhỏ trong khu rừng Nà Loáng, buổi tối để bảo đảm bí mật, Bác về nghỉ tại nhà cụ Nguyễn Xương Thành tại thung lũng Khau Tao, cách khu hội trường khoảng 1 km. Trong những ngày tháng sống và làm việc ở Kim Bình, Bác luôn mặc bộ quần áo chàm xanh của đồng bào dân tộc miền núi, cùng chia sẻ ngọt bùi, đồng cam cộng khổ với nhân dân và anh em, đồng chí.
Ông Nguyễn Văn Điệp, con trai của cụ Nguyễn Xương Thành năm nay đã 83 tuổi nhưng vẫn kể vanh vách những kỷ niệm về Bác. Ông Điệp hồi ấy còn nhỏ nhưng đã làm được nhiều việc có ích như liên lạc, có người lạ đến làng là liền báo cho gia đình và bộ đội. Ông cũng được cha mình giao cho đảm nhận việc trông coi ngựa, cắt cỏ cho ngựa của Bác ăn.
Khi ở nhà mình, ông Điệp chỉ biết đó là một ông cụ rất ngăn nắp, sống giản dị, quan tâm tới tất cả mọi người, đặc biệt là người già và trẻ nhỏ. Ông Điệp bồi hồi kể: “Khi Bác Hồ đến nhà tôi ở, ngôi nhà của gia đình tôi chỉ là một ngôi nhà nhỏ, phên nứa, không được kín gió. Sau đó, bố tôi đã sửa lại, ngăn ra một gian để Bác ở. Bố tôi dặn đường và trứng để giành cho Bác nhưng Bác quả quyết phải chia cho mọi người cùng ăn. Tôi chỉ nghe bố mình nói đó là ông cụ đi làm cách mạng. Mãi sau này, ông cụ rời đi, tôi mới biết đó chính là Bác Hồ”.
Nguyện suốt đời làm theo lời Bác
Tuy Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa nhưng trên mảnh đất xứ Tuyên giàu truyền thống quê hương cách mạng vẫn khắc ghi hình bóng của Bác; nguyện ra sức học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Bác. Tại nhiều nơi đã đổi mới lề lối, tác phong làm việc theo hướng gần dân, trọng dân, vì dân, sâu sát cơ sở. Ở lĩnh vực nào, đơn vị nào cũng xuất hiện những điển hình trong học tập và làm theo gương Bác. Cấp ủy, chính quyền nhiều nơi đã quan tâm, chăm lo đến đời sống người dân, kịp thời nắm bắt, giải quyết những tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân.
Nhớ lời Bác từng nói tại Đại hội Quốc dân Tân Trào ngày 16-8-1945: “Nhiệm vụ của chúng ta là phải làm sao cho các em bé có cơm no, có áo ấm, được đi học, không lam lũ mãi thế này”, Đảng bộ xã Tân Trào nhiều năm qua đã tập trung lãnh đạo nâng cao mức sống và thu nhập cho nhân dân, khơi dậy tinh thần làm chủ của nhân dân. Đồng chí Hoàng Cao Khải, Chủ tịch UBND xã cho biết, Tân Trào có nhiều đổi thay trong phát triển kinh tế, đã hình thành nhiều mô hình kinh tế có thu nhập từ 200 triệu đồng/năm trở lên. Xã đã hình thành và phát triển một số nhãn hiệu hàng hóa giới thiệu đến du khách như gạo Tân Lập, mật ong, chè Vĩnh Tân… Bên cạnh đó, xã còn duy trì và phát triển mạnh bò thương phẩm. Từ 200 con bò ban đầu được hỗ trợ từ năm 2014 đến nay, đàn bò đã phát triển lên tới gần 500 con. Từ chăn nuôi bò thương phẩm, toàn xã có 161 hộ thoát nghèo. Các trường học trên địa bàn xã được công nhận đạt chuẩn quốc gia cấp độ 1; 100% thôn có nhà văn hóa đạt chuẩn; trên 80% hộ dân có 3 công trình vệ sinh đạt chuẩn; tỷ lệ hộ nghèo toàn xã chỉ còn 0,3%, đời sống người dân ngày được nâng lên.
Đảng bộ xã Kim Bình nhiều năm nay không ngừng cụ thể hóa quyết tâm xây dựng Đảng bộ thực sự trong sạch, vững mạnh vào việc lãnh đạo hiệu quả Chương trình xây dựng nông thôn mới nâng cao. Thực hiện lời Bác dạy phải xây dựng Đảng thật mạnh mẽ, chắc chắn, trong sạch như trong bài phát biểu của Người tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II, Đảng bộ xã Kim Bình đã phát huy vai trò nêu gương trong cán bộ, đảng viên. Nhất là trong phát triển kinh tế và xây dựng nông thôn mới. Nhiều cán bộ xã, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, tổ chức đoàn thể xã đi đầu trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ trồng cây chuối tây sang trồng cây ăn quả. Điển hình như Bí thư Đoàn xã Đặng Văn Thịnh. Anh là người tiên phong trồng cây bưởi, cây chanh tứ mùa rồi vận động đoàn viên, thanh niên trong xã làm theo. Hiện nay, gia đình anh có trên 400 gốc bưởi, chanh đã cho thu hoạch, mỗi năm ước cho thu nhập trên 300 triệu đồng. Bí thư Đoàn xã Đặng Văn Thịnh chia sẻ, học và làm theo Bác về xây dựng Đảng phải bắt đầu từ mỗi lời nói, hành động của cán bộ, đảng viên”. Đoàn xã hiện nay có 16 mô hình trồng cây ăn quả do đoàn viên, thanh niên làm chủ. Tổng diện tích cây ăn quả toàn xã hiện gần 500 ha.
Theo đồng chí Ma Quang Bắc, những việc làm gương mẫu trong phát triển kinh tế của cán bộ, đảng viên trong xã đã tạo thành phong trào thi đua xóa nghèo, làm giàu, nâng cao thu nhập trong nhân dân. Tỷ lệ hộ nghèo năm 2015 chiếm trên 26,1% thì đến nay giảm chỉ còn trên 5%. Thu nhập bình quân đầu người đạt trên 36 triệu đồng/người/năm.
Nhớ Bác, mỗi độ tháng 5 về, người dân quê hương cách mạng càng ý thức rõ hơn về việc học tập và làm theo Bác một cách thiết thực, hiệu quả, phát huy truyền thống anh dũng sẵn có, góp phần nhiều hơn nữa trong công cuộc kiến thiết chủ nghĩa xã hội như mong muốn của Người khi trở lại thăm và nói chuyện với Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong tỉnh tháng 3-1961.
Nguồn tin Báo Tuyên Quang